1. Công tác nhân sự
Tại kỳ họp này, với sự tín nhiệm rất cao, Quốc hội đã bầu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng giữ chức vụ Chủ tịch nước. Đây là nội dung quan trọng, được cử tri và Nhân dân cả nước quan tâm, đánh giá cao. Đồng thời, Quốc hội đã phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đối với ông Trương Minh Tuấn và bổ nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đối với ông Nguyễn Mạnh Hùng.
2. Xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước
Quốc hội đã xem xét, thảo luận các báo cáo đánh giá kết quả thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước năm 2018 và kết quả giữa kỳ thực hiện các kế hoạch 5 năm 2016-2020 về kinh tế-xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế, chương trình mục tiêu quốc gia, tài chính quốc gia, đầu tư công trung hạn; kết quả 3 năm thực hiện chính sách đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Quốc hội đã biểu quyết thông qua các nghị quyết sau:
- Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, trong đó thể hiện rõ mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của năm 2019. Quốc hội cơ bản tán thành nhiệm vụ, giải pháp do Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình và các cơ quan của Quốc hội kiến nghị trong các báo cáo thẩm tra, báo cáo giám sát chuyên đề. Quốc hội đề nghị các cơ quan thực hiện tốt các yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp được nêu tại Kết luận số 37-KL/TW ngày 17/10/2018 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII) về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, đồng thời, yêu cầu thực hiện 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp nhằm tổ chức thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu mà Quốc hội đã đề ra, tạo cơ sở vững chắc cho việc hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020…
- Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2019: Năm 2019 tổng số thu ngân sách nhà nước là 1.411.300 tỷ đồng; tổng số chi ngân sách nhà nước là 1.633.300 tỷ đồng; mức bội chi ngân sách nhà nước là 222.000 tỷ đồng (tương đương 3,6% GDP); tổng mức vay của ngân sách nhà nước là 425.252 tỷ đồng.
Quốc hội cho phép sử dụng và quyết toán vào chi ngân sách nhà nước năm 2017 số tiền 10.380 tỷ đồng kinh phí còn lại của ngân sách trung ương năm 2017 để xử lý cho một số nhiệm vụ cần thiết; quyết định điều chỉnh, bổ sung vào danh mục kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018 để thực hiện một số Dự án quan trọng…
- Nghị quyết về phân bổ ngân sách trung ương năm 2019: Quốc hội thông qua tổng số thu ngân sách trung ương là 810.099 tỷ đồng; tổng số thu ngân sách địa phương là 601.201 tỷ đồng; tổng số chi ngân sách trung ương là 1.019.599 tỷ đồng, trong đó dự toán 321.354 tỷ đồng để bổ sung cân đối ngân sách, bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương...
- Nghị quyết về điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020: Quốc hội quyết định điều chỉnh tăng tổng mức vốn nước ngoài từ 300.000 tỷ đồng lên tối đa 360.000 tỷ đồng; giảm tương ứng vốn vay trong nước; giảm nguồn vốn cho các dự án quan trọng quốc gia 10.000 tỷ đồng và ưu tiên bố trí cho các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, gia cố hệ thống đê xung yếu, xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển, di dời dân cư khẩn cấp ra khỏi khu vực có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất.
Quốc hội cho phép sử dụng nguồn dự phòng chung trên cơ sở bảo đảm khả năng cân đối vốn đầu tư của ngân sách nhà nước hằng năm và giữ mức trần đầu tư công 2.000.000 tỷ đồng, giữ tỷ lệ bội chi, chỉ tiêu an toàn nợ công. Cho phép các địa phương được giao kế hoạch đầu tư công hằng năm nguồn vốn trong cân đối ngân sách địa phương trên cơ sở khả năng thu thực tế, không tăng mức bội chi của ngân sách địa phương hằng năm và được quyết định phân bổ vốn dự phòng giai đoạn 2016-2020 nguồn ngân sách địa phương...
3. Xem xét, thông qua các dự án luật, nghị quyết
3.1. Về 9 dự án luật, 01 nghị quyết được Quốc hội thông qua
- Luật Chăn nuôi được ban hành nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất ngành chăn nuôi, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân, tạo giá trị kim ngạch xuất khẩu, ứng phó với biến đổi khí hậu. Luật gồm 8 chương, 83 điều, quy định về: nguyên tắc hoạt động, chiến lược phát triển, chính sách của Nhà nước về chăn nuôi; giống và sản phẩm vật nuôi; thức ăn chăn nuôi; chế biến và thị trường sản phẩm vật nuôi; quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong hoạt động chăn nuôi; quản lý nhà nước về chăn nuôi...
- Luật Trồng trọt được ban hành nhằm tạo lập được nền sản xuất hàng hoá quy mô lớn, chất lượng và từng bước hiện đại hóa, bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nông dân. Luật gồm 7 chương, 85 điều, quy định về: nguyên tắc hoạt động, chiến lược phát triển trồng trọt; giống cây trồng, phân bón, canh tác; thu hoạch, sơ chế, bảo quản, chế biến, thương mại và quản lý chất lượng sản phẩm cây trồng; quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt động trồng trọt; quản lý nhà nước về trồng trọt…
- Luật Bảo vệ bí mật nhà nước được ban hành nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật nhà nước; hạn chế tối đa tình hình lộ, mất thông tin, tài liệu, vật mang bí mật nhà nước... Luật gồm 5 chương, 28 điều, quy định về: phạm vi, danh mục, việc ban hành bí mật nhà nước; các hoạt động sao, chụp, thống kê, lưu giữ, bảo quản, phổ biến, vận chuyển, giao nhận, cung cấp, chuyển giao bí mật nhà nước của cơ quan, tổ chức, cá nhân; thời hạn bảo vệ và gia hạn bảo vệ bí mật nhà nước; vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, sử dụng bí mật nhà nước…
- Luật Cảnh sát biển Việt Nam được ban hành nhằm khẳng định Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng cốt thực thi pháp luật, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển và chịu sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, không thuộc lực lượng Quân đội nhân dân và Cảnh sát nhân dân. Luật gồm 8 chương, 41 điều, quy định về: vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức, biện pháp công tác, quyền hạn, phạm vi hoạt động và các biện pháp thực thi pháp luật trên biển của lực lượng Cảnh sát biển; sử dụng vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và điều kiện được nổ súng quân dụng trong thi hành nhiệm vụ; hệ thống tổ chức, chế độ chính sách đối với Cảnh sát biển Việt Nam; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan...
- Luật Công an nhân dân được sửa đổi toàn diện, bổ sung nhiều nội dung cụ thể hóa quan điểm của Đảng làm cơ sở pháp lý để đổi mới, sắp xếp hệ thống tổ chức bộ máy và phân cấp thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của Công an nhân dân bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Luật gồm 7 chương, 46 điều, trong đó, phạm vi điều chỉnh đã bổ sung quy định về bảo đảm điều kiện hoạt động, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; sửa đổi quy định về thời hạn công dân thực hiện nghĩa vụ; bổ sung một số quy định về công nghiệp an ninh, hạn tuổi phục vụ cao nhất của Hạ sĩ quan, nữ sĩ quan cấp tướng trong Công an nhân dân, việc kéo dài thời gian phục vụ tại ngũ; không quy định cụ thể các vị trí có cấp bậc hàm cấp Tướng mà chỉ quy định nguyên tắc, tiêu chí, số lượng để giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quy định cho phù hợp với Hiến pháp…
- Luật Đặc xá được sửa đổi toàn diện, gồm 6 chương, 39 điều, trong đó, vẫn giữ nguyên hai phương thức thực hiện đặc xá là đặc xá nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước và đặc xá trong trường hợp đặc biệt để đáp ứng yêu cầu đối nội, đối ngoại của đất nước. Về đặc xá nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước đã tập trung sửa đổi, bổ sung về đối tượng được đề nghị đặc xá; quy định cụ thể hơn trình tự, thủ tục, thẩm quyền đề nghị đặc xá, thực hiện quyết định về đặc xá và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện đặc xá...
- Luật Phòng, chống tham nhũng được sửa đổi toàn diện, gồm 11 chương, 97 điều với những sửa đổi quan trọng như: mở rộng phạm vi áp dụng một số biện pháp phòng, chống tham nhũng đối với công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và một số tổ chức xã hội có huy động đóng góp của Nhân dân để hoạt động từ thiện; mở rộng phạm vi đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập; thu hẹp một bước cơ quan có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập; đồng thời, quy định cụ thể hơn quyền và nghĩa vụ của công dân, các tổ chức xã hội tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng; bảo vệ, khen thưởng người phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng…
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học được ban hành để sửa đổi, bổ sung các quy định về: quản trị đại học; hoạt động đào tạo; quản lý nhà nước về giáo dục đại học theo hướng phân định giữa quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học và quản trị trong mỗi cơ sở giáo dục đại học… Đồng thời, thay đổi cơ chế quản lý tài chính, tài sản bảo đảm thông thoáng và hiệu quả; thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học….
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật có liên quan đến quy hoạch được ban hành nhằm bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với các quy định của Luật Quy hoạch, đáp ứng yêu cầu về tiến độ có hiệu lực cùng với Luật Quy hoạch từ ngày 01/01/2019. Theo đó, Luật đã sửa đổi tên các quy hoạch để bảo đảm phù hợp với tên quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành theo quy định của Luật Quy hoạch; sửa đổi các luật có quy định về các loại quy hoạch không phù hợp với khái niệm quy hoạch được quy định tại Luật Quy hoạch; sửa đổi các quy định liên quan đến việc lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, điều chỉnh một số quy hoạch; bãi bỏ quy định sử dụng quy hoạch làm điều kiện cấp phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ...
Quốc hội giao Chính phủ khẩn trương chuẩn bị, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của các pháp lệnh có liên quan đến quy hoạch để bảo đảm thực hiện Luật Quy hoạch.
- Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cùng các văn kiện liên quan: Việc phê chuẩn CPTPP có ý nghĩa quan trọng, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc chủ động hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, khẳng định vị thế và trách nhiệm của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế. Thông qua việc phê chuẩn này, Quốc hội nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm tương thích với các cam kết. Chính phủ chủ động nghiên cứu, quán triệt các nội dung của Hiệp định đến các cấp, các ngành, các địa phương và toàn xã hội; đồng thời, tổ chức triển khai thực hiện một cách có hiệu quả, tận dụng tối đa các cơ hội, lợi ích mà Hiệp định đem lại. Cộng đồng doanh nghiệp cần tích cực nghiên cứu, nắm chắc các quy định của CPTPP, đẩy mạnh cải tiến, đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh để đứng vững và phát triển trong điều kiện mới.
3.2. Về 6 dự án luật được Quốc hội cho ý kiến
- Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định các biện pháp phòng, chống tác hại của rượu, bia, bao gồm: biện pháp về giảm mức tiêu thụ, giảm tác hại, quản lý việc cung cấp rượu, bia; điều kiện bảo đảm cho phòng, chống tác hại của rượu, bia; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống tác hại của rượu, bia.
- Luật Kiến trúc quy định về quản lý kiến trúc, hành nghề kiến trúc, quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động kiến trúc. Quốc hội đã tập trung thảo luận về: tên gọi, phạm vi, đối tượng điều chỉnh; chính sách của Nhà nước trong phát triển kiến trúc; quản lý kiến trúc, trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền địa phương các cấp trong việc quản lý, phối hợp giữa kiến trúc và văn hóa; trách nhiệm của chủ đầu tư, chủ sở hữu công trình...
- Luật Giáo dục (sửa đổi) được trình Quốc hội theo hướng mở rộng phạm vi sửa đổi; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, liên thông; xác định rõ các loại hình cơ sở giáo dục và chủ thể thành lập nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân; bổ sung nguyên tắc chuyển đổi loại hình trường; bổ sung, sửa đổi các chính sách đối với người dạy và người học, các quy định về chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông... Quốc hội đã quyết định xem xét, thông qua dự án Luật Giáo dục (sửa đổi) tại kỳ họp thứ 7 (tháng 5-2019).
- Luật Quản lý thuế (sửa đổi) được trình Quốc hội theo hướng bổ sung 3 chương về: nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý thuế; áp dụng hóa đơn, chứng từ điện tử; tổ chức kinh doanh dịch vụ đại lý thuế, đại lý hải quan. Quốc hội đã tập trung thảo luận về nhiều nội dung như: phạm vi điều chỉnh; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ trong quản lý thuế; các trường hợp được khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, xóa nợ tiền thuế; cung cấp dịch vụ đại lý thuế; nguyên tắc về quản lý thuế, hóa đơn, chứng từ; kê khai thuế; nộp thuế; xử lý vi phạm pháp luật về thuế; tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế...
- Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) được Quốc hội tập trung thảo luận về nhiều nội dung như: phạm vi điều chỉnh; thời gian thông qua Luật; quy định quyền, nghĩa vụ của phạm nhân; chế độ lao động của phạm nhân và tổ chức cho phạm nhân lao động; tổ chức khu sản xuất, điểm lao động và tổ chức dạy nghề ngoài trại giam; tha tù trước thời hạn có điều kiện; thi hành án hình sự đối với pháp nhân thương mại;... Quốc hội quyết định mở rộng phạm vi sửa đổi, bổ sung và đổi tên dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự thành Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi).
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến 3 nhóm chính sách về: quy định chung, quản lý dự án, quản lý kế hoạch đầu tư công. Quốc hội tập trung thảo luận về: phạm vi sửa đổi; phân loại và quy trình, thủ tục với từng loại nguồn vốn đầu tư công; tiêu chí phân loại dự án đầu tư quan trọng quốc gia; phân cấp thẩm quyền của các cơ quan trong thẩm định nguồn vốn, phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, điều chỉnh dự án; thẩm quyền, quy trình lập, phê duyệt, giao kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm...
4. Chất vấn và trả lời chất vấn: Quốc hội đã xem xét các báo cáo và tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn về việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết kỳ họp thứ 4. Đây được coi như một cuộc sơ kết đánh giá giữa nhiệm kỳ, thể hiện thái độ, trách nhiệm của Quốc hội trong việc giám sát đến cùng đối với những vấn đề quan trọng của đất nước, những vấn đề cử tri và Nhân dân quan tâm.
Nội dung chất vấn có phạm vi rộng, nhiều chất vấn của đại biểu liên quan đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở hầu hết các lĩnh vực của cả khối hành pháp và tư pháp. Tổng cộng có 135 đại biểu đặt câu hỏi chất vấn và 82 lượt đại biểu tranh luận. Các thành viên Chính phủ, trong đó 02 Phó Thủ tướng Chính phủ, 19 Bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước đã trực tiếp trả lời chất vấn các vấn đề thuộc trách nhiệm quản lý, điều hành. Cuối phiên chất vấn, Thủ tướng Chính phủ đã phát biểu làm rõ một số nội dung thuộc trách nhiệm của Chính phủ và trả lời một số chất vấn của đại biểu.
5. Lấy phiếu tín nhiệm: Quốc hội đã hoàn thành việc lấy phiếu tín nhiệm đối với 48 người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm cho thấy, các vị đại biểu Quốc hội đã đánh giá khách quan, công tâm, thẳng thắn và thể hiện rõ mức độ tín nhiệm của mình đối với từng chức danh; các cá nhân được lấy phiếu tín nhiệm đều có sự ghi nhận về mức độ cố gắng, đóng góp, cống hiến trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ. Đây là cơ sở để người được lấy phiếu tiếp tục phát huy kết quả đạt được, nghiêm túc rút kinh nghiệm, khắc phục hạn chế để hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
6. Xem xét các báo cáo công tác của các cơ quan Nhà nước và các báo cáo khác theo quy định: Quốc hội đã dành thời gian thỏa đáng xem xét các báo cáo về công tác phòng ngừa, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; công tác thi hành án; công tác phòng, chống tham nhũng; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân; kết quả giám sát việc giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 5 và một số báo cáo khác của cơ quan, tổ chức hữu quan. Quốc hội cơ bản tán thành với nội dung của các báo cáo và cho rằng, các cơ quan đã chủ động tập trung chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng được nâng cao, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,. Đồng thời, thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, bất cập cần sớm được khắc phục. Trên cơ sở đó, Quốc hội yêu cầu Chính phủ, các cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, ý kiến của cử tri và Nhân dân; triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao hiệu quả các lĩnh vực công tác trong thời gian tới.
Về Hoạt động của Đoàn ĐBQH tỉnh Kon Tum tại kỳ họp: Đoàn ĐBQH tỉnh Kon Tum tham dự kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV gồm 06/06 đại biểu, do đồng chí A Pớt, Phó Bí thư Tỉnh ủy - Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh làm Trưởng đoàn. Tại kỳ họp, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã hoạt động tích cực và tham gia đầy đủ các phiên họp của Quốc hội. Với tinh thần trách nhiệm cao với nhân dân cả nước nói chung, với cử tri tỉnh Kon Tum nói riêng, các đại biểu Quốc hội trong Đoàn đã tập trung trí tuệ, nghiên cứu, tham gia ý kiến có chất lượng cao tại các buổi thảo luận ở Tổ và ở Hội trường.
Tại các phiên thảo luận ở hội trường, Đoàn ĐBQH tỉnh đã có 8 lượt phát biểu với 31 ý kiến tham gia đối với các nội dung: Kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018 và 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm 2016-2020; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019; Đánh giá sơ kết 3 năm thực hiện kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế 5 năm giai đoạn 2016-2020; kết quả 3 năm thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi; việc thực hiện Nghị quyết số 100/2015/QH13 phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020; Một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi); Luật Bảo vệ bí mật nhà nước; Luật Trồng trọt; Luật Cảnh sát biển Việt Nam; Luật Công an nhân dân (sửa đổi);...
Tại các phiên chất vấn ở hội trường, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Kon Tum đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Nội vụ 01 ý kiến và Chất vấn Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao 01 ý kiến.
Tại các phiên thảo luận tại Tổ, Đoàn ĐBQH tỉnh đã có 8 lượt phát biểu với 37 ý kiến tham gia đối với các nội dung: Các vấn đề về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước hằng năm và giữa kỳ; Việc phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cùng các văn kiện liên quan; Các dự án Luật Kiến trúc; Luật sửa đổi, bổ sung các Luật có quy định liên quan đến quy hoạch; Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) và Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia.
Tiến hành 4 lần thảo luận ở Đoàn về dự kiến nhân sự bầu Chủ tịch nước; việc miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đối với ông Trương Minh Tuấn; việc phê chuẩn việc bổ nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đối với Ông Nguyễn Mạnh Hùng; Các vấn đề liên quan đến việc lấy phiếu tín nhiệm.
Ngoài các phiên họp chính thức, trong thời gian diễn ra kỳ họp các đại biểu Quốc hội trong Đoàn đã tham gia các hoạt động của Hội đồng dân tộc và Ủy ban của Quốc hội mà mình là thành viên./.