Tại kỳ họp này, Quốc hội đã thông qua 10 luật, 21 nghị quyết, cho ý kiến về 6 dự án luật khác; giám sát chuyên đề “việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em”; xem xét các báo cáo về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước và nhiều báo cáo quan trọng khác.
* Về Công tác lập pháp
- Các luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua
+ Luật Đầu tư được sửa đổi nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật, cắt giảm thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao chất lượng đầu tư, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng của các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế trong hoạt động đầu tư kinh doanh, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cổ đông, nhà đầu tư khi tham gia đầu tư tại doanh nghiệp.
Luật gồm 7 chương, 79 điều quy định nhiều nội dung mới như: bổ sung khái niệm chấp thuận chủ trương đầu tư để làm rõ mục đích, bản chất của việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận chủ trương thực hiện dự án; ngành “kinh doanh dịch vụ đòi nợ” vào ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh; quy định về ngành, nghề và điều kiện tiếp cận đối với nhà đầu tư nước ngoài; nguyên tắc, điều kiện áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư; áp dụng ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đặc biệt; quy định rõ các loại dự án được áp dụng ưu đãi, mức ưu đãi và thời hạn ưu đãi; các hình thức lựa chọn nhà đầu tư và làm rõ mối quan hệ giữa chấp thuận chủ trương đầu tư, đấu giá, đấu thầu và lựa chọn nhà đầu tư; thu hẹp phạm vi dự án đầu tư phải trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư, phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng, kinh doanh sân golf; đơn giản hóa hồ sơ, nội dung chấp thuận chủ trương dự án đầu tư theo hướng lồng ghép các nội dung giải trình về công nghệ, môi trường và hiệu quả kinh tế, xã hội trong báo cáo đề xuất dự án đầu tư hoặc báo cáo nghiên cứu tiền khả thi; minh bạch hóa điều kiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài; phân định rõ điều kiện, thủ tục góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và điều kiện, thủ tục góp vốn, mua, bán cổ phần của công ty đại chúng; tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại công ty đại chúng theo Luật Chứng khoán; quy định rõ các trường hợp điều chỉnh văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; giám định vốn đầu tư trong trường hợp cần thiết để xác định căn cứ tính thuế, góp phần hạn chế tình trạng chuyển giá, trốn thuế; rà soát, cập nhật nội dung các phụ lục 1, 2, 3 thuộc danh mục cấm đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật và các điều ước quốc tế. Sửa đổi, bổ sung Điều 4 áp dụng Luật Đầu tư và các luật có liên quan. Bãi bỏ và sửa đổi, bổ sung một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Phụ lục 4... Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021, trừ quy định tại khoản 3 Điều 75 có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 9 năm 2020.
+ Luật Doanh nghiệp được sửa đổi nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cắt giảm thủ tục hành chính nhằm giảm chi phí cho doanh nghiệp; nâng cao chất lượng tổ chức quản trị doanh nghiệp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cổ đông, nhà đầu tư khi tham gia đầu tư kinh doanh tại doanh nghiệp; bảo đảm tương thích với hệ thống pháp luật; đáp ứng yêu cầu thực tiễn và hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật gồm 10 chương, 218 điều quy định nhiều nội dung mới như: bỏ thủ tục báo cáo thay đổi thông tin của người quản lý doanh nghiệp, thủ tục thông báo mẫu dấu cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Sửa đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước; quy định cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% (Luật Doanh nghiệp năm 2014) xuống 5% tổng số cổ phần có quyền tiếp cận thông tin về tình hình hoạt động của công ty và triệu tập họp đại hội đồng cổ đông. Bổ sung trường hợp ngoại trừ đối với quy định bổ nhiệm thành viên Hội đồng thành viên không quá 2 nhiệm kỳ liên tục; đối tượng tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự. Quy định về quyền biểu quyết của cổ đông và nhóm cổ đông tương ứng khi quy định các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông mà làm bất lợi đến quyền và lợi ích của cổ đông hoặc nhóm cổ đông đó; quyền, nhiệm vụ của Ủy ban kiểm toán thuộc Hội đồng quản trị; trường hợp Đại hội đồng cổ đông chấp thuận các giao dịch vay, cho vay, bán tài sản giữa công ty và cổ đông sở hữu trên 51% cổ phần của chính công ty đó và nếu giao dịch đó có giá trị lớn hơn 10% tổng số tài sản của công ty; làm rõ đối tượng được mua và chuyển nhượng trái phiếu bảo đảm phù hợp với Luật Chứng khoán và thông lệ phổ biến... Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.
+ Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) được ban hành nhằm quy định về hoạt động đầu tư theo phương thức đối tác công tư; hoạt động quản lý nhà nước, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Luật gồm 11 chương, 101 điều quy định lĩnh vực đầu tư dự án PPP tập trung vào 5 nhóm lĩnh vực quan trọng, thiết yếu liên quan đến phát triển cơ sở hạ tầng (giao thông, thủy lợi), cung cấp dịch vụ thiết yếu (điện, nước, xử lý môi trường), bảo đảm an sinh xã hội (y tế, giáo dục - đào tạo), phù hợp với sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 (hạ tầng công nghệ thông tin).
Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021, trừ dự án áp dụng loại hợp đồng BT chưa được phê duyệt chủ trương đầu tư thì dừng thực hiện kể từ ngày 15 tháng 8 năm 2020.
+ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội được ban hành nhằm cụ thể hóa các quy định của Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Luật đã sửa đổi, bổ sung 21 Điều của Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành, tập trung vào các vấn đề sau: bổ sung tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam; tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lên ít nhất là 40% tổng số đại biểu Quốc hội; bổ sung thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc thực hiện công tác quản lý cán bộ đối với đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại địa phương; mở rộng cơ cấu của Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội; đổi tên Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng thành Ủy ban Văn hóa, giáo dục, Ủy ban về các vấn đề Xã hội thành Ủy ban Xã hội; bổ sung trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội trong việc tham gia thẩm tra và việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết…
Luật quy định Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của các đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tại địa phương; chấm dứt việc thực hiện thí điểm hợp nhất Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội được thành lập theo Nghị quyết số 1097/2015/UBTVQH13 ngày 22/12/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện thí điểm theo Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14 ngày 14/10/2018 của Ủy ban thường vụ Quốc hội tiếp tục hoạt động cho đến khi Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được thành lập để tham mưu, giúp việc, phục vụ chung hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân theo quy định của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Việc thành lập Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải hoàn thành trước ngày 01/7/2021.
+ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã sửa đổi, bổ sung 67 Điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành với một số nội dung lớn sau: bổ sung một số quy định để tiếp tục khẳng định, làm rõ và sâu sắc hơn cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; thể chế hóa chủ trương của Đảng về việc đưa hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội vào quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; sửa đổi một số quy định nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương; Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được ban hành nghị quyết để quy định thủ tục hành chính trong một số trường hợp; tăng thêm thời hạn thẩm định cho Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp. Sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm làm rõ và nâng cao hơn trách nhiệm của các cơ quan trong toàn bộ quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật như: quy định rõ hơn trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong việc tham gia thẩm tra Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, các dự án, dự thảo; bổ sung trách nhiệm của cơ quan soạn thảo, thẩm định, thẩm tra trong việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết và việc bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.
+ Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án được ban hành giúp thu hút nguồn nhân lực có chất lượng, kinh nghiệm trong xã hội tham gia công tác hòa giải, đối thoại, góp phần hạn chế các vụ việc Tòa án phải đưa ra xét xử.
Luật gồm 04 chương, 42 điều quy định những nguyên tắc cơ bản hòa giải, đối thoại tại Tòa án và các nội dung chính sau: (1) Phạm vi điều chỉnh của Luật là những hòa giải, đối thoại được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, đơn khởi kiện vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. (2) Chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án do ngân sách nhà nước bảo đảm, trừ một số trường hợp được quy định trong Luật phải chịu chi phí. (3) Quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quyền và nghĩa vụ của Hòa giải viên khi thực hiện hòa giải, đối thoại. (4) Phạm vi hòa giải, đối thoại của Hòa giải viên trong phạm vi địa bàn của tỉnh nơi Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc có trụ sở. (5) Trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quyền của các bên được lựa chọn hòa giải, đối thoại tại Tòa án hoặc giải quyết tranh chấp, yêu cầu, khiếu kiện theo thủ tục tố tụng. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.
+ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp được ban hành nhằm tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong công tác giám định tư pháp phục vụ giải quyết án tham nhũng, kinh tế.
Luật đã bổ sung 01 điều, sửa đổi, bổ sung nội dung 26 điều và chỉnh lý kỹ thuật 03 điều của Luật Giám định tư pháp hiện hành với những nội dung như: (1) Bổ sung quy định “Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao” là tổ chức giám định tư pháp công lập về kỹ thuật hình sự, nhằm đáp ứng yêu cầu công tác điều tra, xử lý tội phạm về tham nhũng, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. (2) Bổ sung quy định bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Kiểm toán nhà nước, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn cấp tỉnh có trách nhiệm giới thiệu cá nhân, tổ chức ngoài danh sách đã được công bố nhưng có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định để thực hiện giám định theo yêu cầu của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. (3) Sửa đổi quy định về giao trách nhiệm cho một cơ quan, tổ chức chuyên môn về giám định tư pháp chủ trì việc thực hiện giám định trong trường hợp cần phối hợp nhiều cơ quan, tổ chức, nhằm xử lý vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án kinh tế, tham nhũng. (4) Bổ sung quy định về thời hạn giám định tư pháp ngoài các quy định về thời hạn giám định đã được Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, nhằm giải quyết được vướng mắc hiện nay trong hoạt động giám định tư pháp theo vụ việc. (5) Sửa đổi, bổ sung quy định về quyền, nghĩa vụ của người trưng cầu giám định tư pháp, tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp; quyền, nghĩa vụ của giám định viên tư pháp, nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tố tụng. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.
+ Luật Thanh niên được sửa đổi đã thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, đường lối của Đảng, cụ thể hóa nội dung của Hiến pháp 2013 về thanh niên và công tác thanh niên; thể chế hóa trách nhiệm của thanh niên thành các quy định pháp luật, trong đó nhấn mạnh vai trò, sứ mệnh của thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Luật gồm 07 chương, 41 điều quy định về chính sách của Nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình; quy định tháng 3 hằng năm là Tháng Thanh niên; tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam, giữ vai trò nòng cốt trong phong trào thanh niên và trong các tổ chức thanh niên, đại diện chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên; thiết lập cơ chế đối thoại giữa người đứng đầu Chính phủ, chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị với thanh niên về các vấn đề liên quan đến thanh niên; cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thanh niên là Bộ Nội vụ; thiết lập, làm rõ trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức thanh niên, cơ sở giáo dục, gia đình đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên, tạo môi trường, điều kiện để bồi dưỡng, giáo dục, phát huy thanh niên. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.
+ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều được ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tế quản lý nhà nước và công tác ứng phó sự cố thiên tai hiện nay.
. Luật Phòng chống thiên tai đã sửa đổi, bổ sung một số vấn đề lớn sau: bổ sung 03 loại hình thiên tai mới; quy định đầy đủ hơn về nguồn nhân lực, nguồn ngân sách cho phòng, chống thiên tai; Quỹ phòng chống thiên tai trung ương do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý; quy định về vật tư, phương tiện, trang thiết bị chuyên dùng cho phòng, chống thiên tai và giao Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục và quản lý sử dụng; bổ sung quy định về bộ phận chuyên trách của Ban chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn cấp tỉnh; sửa đổi, bổ sung nhiều quy định bất cập phục vụ công tác quản lý như: điều tra cơ bản phòng, chống thiên tai; kế hoạch phòng, chống thiên tai với một số loại hình thiên tai phổ biến; các quy định nhằm bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai đối với khai thác, vận hành công trình, đối với đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, chỉnh trang khu vực sản xuất, dân sinh và công trình hạ tầng kỹ thuật trọng yếu; về thông tin, truyền thông, giáo dục về phòng, chống thiên tai; về khoa học và công nghệ trong phòng chống thiên tai.
. Luật Đê điều đã sửa đổi, bổ sung một số vấn đề lớn sau: làm rõ khái niệm “bãi nổi hoặc cù lao”, “bờ sông”; sửa đổi, bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm cho phù hợp với thực tế. Bổ sung quy định về sử dụng bãi nổi, cù lao nơi chưa có công trình xây dựng; về xử lý công trình, nhà ở hiện có ở bãi nổi, cù lao ở các tuyến sông có đê; đối với hoạt động nạo vét luồng lạch trong phạm vi bảo vệ đê điều với đê từ cấp III đến cấp đặc biệt. Bỏ quy định xây dựng cầu dẫn khi xây cầu qua tuyến sông có đê và giao Thủ tướng Chính phủ quy định nội dung bảo đảm an toàn thoát lũ, thông thoáng dòng chảy và bảo đảm an toàn đê điều.
Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.
+ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng được ban hành để phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành, nhất là những luật mới được Quốc hội ban hành thời gian gần đây nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với chủ trương cải cách thủ tục hành chính, đầu tư xây dựng hiện nay.
Luật đã sửa đổi 65 nội dung của Luật Xây dựng năm 2014 và sửa đổi, bổ sung Điều 17 của Luật Nhà ở số 65/2014/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 40/2019/QH14 về hình thức phát triển nhà ở, dự án đầu tư xây dựng nhà ở. Trong đó đã quy định một số chính sách mới sau: phân cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng địa phương thay cho Bộ Xây dựng; cấp phép các công trình xây dựng cấp đặc biệt đã; quy định cụ thể điều kiện cấp giấy phép xây dựng có thời hạn, những loại công trình xây dựng được miễn giấy phép; đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, chủ đầu tư, thúc đẩy các biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế sau đại dịch Covid-19. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2021, trừ một số trường hợp cụ thể tại khoản 2 Điều 3 của Luật.
+ Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA) được ban hành đã thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và ủng hộ hệ thống thương mại đa phương dựa trên luật lệ trong bối cảnh chủ nghĩa dân túy và bảo hộ thương mại diễn biến phức tạp; giúp đa dạng hóa thị trường của Việt Nam, góp phần bảo đảm an ninh kinh tế, đánh dấu giai đoạn hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng của Việt Nam.
Theo báo cáo của Chính phủ, Hiệp định sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân từ 2,18 đến 3,25% (cho giai đoạn 5 năm đầu thực hiện), 4,57-5,30% (cho giai đoạn 05 năm tiếp theo) và 7,07-7,72% (cho giai đoạn 05 năm sau đó). Liên minh Châu Âu là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới và hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Mỹ). Thông qua Hiệp định này, Việt Nam có thể tiếp cận một thị trường tiềm năng với dân số hơn 500 triệu người, GDP khoảng 15.000 tỷ USD chiếm 22% GDP toàn cầu. Bên cạnh đó, khi thực thi Hiệp định EVFTA chúng ta cũng gặp một số thách thức về cạnh tranh hàng hóa và dịch vụ, yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, thực hiện mạnh mẽ, hiệu quả chủ trương cải cách thủ tục hành chính và khả năng gia tăng sức ép xã hội, xảy ra tranh chấp về lao động… Do vậy, chúng ta cũng cần phải có kế hoạch triển khai chặt chẽ để phát huy được những lợi ích giảm thiểu những rào cản để phát triển kinh tế nước ta.
+ Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa một bên là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một bên là Liên minh Châu Âu và các nước thành viên Liên minh Châu Âu (EVIPA) được ban hành phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Việc Quốc hội sớm phê chuẩn Hiệp định EVIPA sẽ làm tăng sự tin cậy, tạo tiền đề quan trọng để các nước thành viên Liên minh Châu Âu sớm hoàn thành thủ tục pháp lý nội bộ để Hiệp định EVIPA có hiệu lực.
Hiệp định EVIPA có điểm mới là xây dựng Cơ chế giải quyết tranh chấp thường trực để giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư của một Bên với Nhà nước Bên kia. Đồng thời, giúp thu hút đầu tư nước ngoài từ Châu Âu vào Việt Nam, tạo cơ hội tiếp cận với nền công nghệ hiện đại, công nghệ mới và công nghệ sạch từ các nước Châu Âu. Bên cạnh những cơ hội, Hiệp định EVIPA cũng có một số thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam trước áp lực cạnh tranh của nhà đầu tư nước ngoài; về yêu cầu hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công chức, thẩm phán, luật sư, trọng tài viên quốc tế, doanh nghiệp để đáp ứng xử lý các tranh chấp đầu tư theo Hiệp định.
+ Nghị quyết về việc gia nhập Công ước số 105 của Tổ chức Lao động Quốc tế về Xóa bỏ lao động cưỡng bức (ILO) được ban hành đã khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong quá trình thực thi các cam kết liên quan đến lao động trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và thực hiện nghĩa vụ của Việt Nam với trách nhiệm là quốc gia thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế.
+ Nghị quyết về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp đầu tư theo Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa một bên là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một bên là Liên minh Châu Âu và các nước thành viên Liên minh Châu Âu được ban hành đã thể hiện quyết tâm chính trị của Việt Nam trong việc thực hiện Hiệp định EVIPA, đồng thời tăng cường sự tin cậy và thúc đẩy các nước thành viên Liên minh Châu Âu sớm phê chuẩn Hiệp định này.
Các phán quyết được công nhận và cho thi hành gồm: (1) Phán quyết mà bị đơn là Việt Nam được ban hành trong thời hạn 05 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực hoặc trong một thời gian dài hơn theo quyết định của Ủy ban thành lập theo Hiệp định thì được coi như phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam xem xét theo thủ tục tố tụng dân sự để công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận phán quyết. (2) Phán quyết mà bị đơn là Việt Nam được ban hành sau thời hạn trên thì được công nhận như bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án Việt Nam. Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi người phải thi hành Phán quyết có tài sản ra quyết định công nhận, cho thi hành. (3) Phán quyết được ban hành kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực mà bị đơn là Liên minh Châu Âu hoặc nước thành viên Liên minh Châu Âu thì sẽ được công nhận như bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án Việt Nam. Tòa án nhân dân cấp tỉnh, nơi người phải thi hành Phán quyết có tài sản ra quyết định công nhận, cho thi hành. Việc thi hành các phán quyết trên theo pháp luật về thi hành án dân sự.
+ Nghị quyết về kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp được quy định tại Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2010 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 28/2016/QH14 được ban hành nhằm kéo dài thời gian miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết ngày 31 ngày 12 năm 2025. Nghị quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.
+ Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách tài chính - ngân sách đặc thù đối với thành phố Hà Nội ban hành tạo điều kiện để Thủ đô tiếp tục phát triển nhanh, bền vững hơn, xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ lớn của đất nước, khẳng định vị thế đầu tàu, động lực, có sức thu hút và lan tỏa lớn ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, vùng đồng bằng Sông Hồng, đóng góp lớn hơn vào sự phát triển kinh tế-xã hội của cả nước.
Nghị quyết giao Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội quyết định ban hành một số khoản phí, lệ phí mới và tăng mức phí, lệ phí đối với các loại phí, lệ phí hiện hành trên địa bàn thành phố, trừ lệ phí tòa án và án phí; quyết định dự toán, phân bổ ngân sách thành phố bảo đảm phù hợp với các định hướng cơ cấu lại ngân sách, phát triển kinh tế - xã hội và các lĩnh vực quan trọng để phù hợp với yêu cầu thực tiễn; sử dụng nguồn kinh phí chi thường xuyên của ngân sách địa phương để đầu tư nâng cấp, cải tạo, mở rộng; đầu tư xây dựng mới các hạng mục công trình thiết yếu; sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn dư để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Ngân sách thành phố Hà Nội được hưởng 50% khoản thu tiền sử dụng đất khi bán tài sản công gắn liền trên đất sau khi đã trừ chi phí liên quan đến việc bán tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, kinh phí di dời, xây dựng cơ sở vật chất tại địa điểm mới theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Được sử dụng không quá 50% so với số dư Quỹ dự trữ tài chính của Thành phố cho tạm ứng không quá 36 tháng để đầu tư dự án quan trọng cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Nâng mức dư nợ vay tối đa của ngân sách thành phố lên mức không quá 90% số thu ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 8 năm 2020 và được thực hiện trong 05 năm.
+ Nghị quyết về giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác được ban hành nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Nghị quyết quy định giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2020 cho doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam, tổ chức thành lập theo Luật Hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác thành lập theo pháp luật Việt Nam có tổng doanh thu năm 2020 không quá 200 tỷ đồng. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành sau 45 ngày kể từ ngày ký và áp dụng cho kỳ tính thuế năm 2020.
+ Nghị quyết về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng được ban hành nhằm cụ thể hóa yêu cầu tại Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Nghị quyết quy định việc thực hiện thí điểm mô hình một cấp chính quyền ở đô thị. Theo đó, tại thành phố Đà Nẵng tổ chức cấp chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, tại các quận và phường không tổ chức cấp chính quyền địa phương mà chỉ tổ chức cơ quan hành chính là Ủy ban nhân dân; chính quyền địa phương ở huyện và các xã thuộc thành phố Đà Nẵng vẫn tiếp tục thực hiện như hiện nay. Ủy ban nhân dân quận, phường làm việc theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và có điều chỉnh về nhiệm vụ, quyền hạn cho phù hợp với tính chất, đặc điểm của cơ quan hành chính ở đô thị. Nghị quyết cũng quy định việc thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển thành phố Đà Nẵng, bao gồm việc điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị và một số chính sách về quản lý tài chính - ngân sách nhà nước. Nghị quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.
+ Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020 được ban hành làm cơ sở cho việc triển khai công tác lập pháp của Quốc hội trong thời gian tới, trong đó tập trung ưu tiên xây dựng các dự án để triển khai thực hiện các nghị quyết, kết luận của Hội nghị trung ương, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; tiếp tục cụ thể hóa Hiến pháp; bảo đảm phù hợp, thống nhất với các điều ước quốc tế mới được Quốc hội phê chuẩn, các luật mới được Quốc hội ban hành; đáp ứng yêu cầu cấp thiết về phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Việc xây dựng Chương trình năm 2021 cũng đã có tính toán đến đặc thù là năm chuyển giao nhiệm kỳ, nên số lượng dự án được đưa vào Chương trình cũng rất hạn chế, chỉ có 04 dự án luật, 01 dự thảo nghị quyết được trình Quốc hội thông qua ((1) Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi); (2) Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi); (3) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn; (4) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); (5) Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022) và 06 dự án luật khác được trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu ((1) Luật Cảnh sát cơ động; (2) Luật Điện ảnh (sửa đổi); (3) Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi); (4) Luật Thanh tra (sửa đổi); (5) Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi); (6) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ).
Về điều chỉnh Chương trình năm 2020, Quốc hội đã đồng ý bổ sung 03 dự án luật và 01 dự thảo nghị quyết để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 10 ((1) Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi); (2) Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi); (3) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn; (4) Nghị quyết của Quốc hội về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ); điều chỉnh thời gian trình đối với dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) từ Chương trình cho ý kiến tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV sang cho ý kiến tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV; đưa dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai và Luật Khám bệnh, chữa bệnh ra khỏi Chương trình để có thêm thời gian cho việc tổng kết, đánh giá kỹ lưỡng và thể chế hóa đầy đủ các nghị quyết, chỉ đạo, kết luận của Đảng và sẽ báo cáo Quốc hội bổ sung vào Chương trình trong thời gian sớm nhất.
Quang cảnh kỳ họp thứ 9 - Quốc hội khóa XIV
Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các ngành, các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch, khẩn trương có các giải pháp tổ chức triển khai thực hiện các luật, nghị quyết vừa được Quốc hội thông qua, sớm ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, góp phần đưa luật sớm đi vào cuộc sống; các cơ quan của Quốc hội thường xuyên giám sát việc thi hành luật, nghị quyết.
- Các dự án luật được Quốc hội cho ý kiến
+ Dự án Luật Biên phòng Việt Nam được trình Quốc hội gồm 07 chương, 33 điều. Việc xây dựng Luật nhằm thay thế cho Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng để kịp thời thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, bảo đảm thống nhất với Hiến pháp, các văn bản pháp luật liên quan, các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Tại kỳ họp này, Quốc hội đã tập trung thảo luận về nhiệm vụ biên phòng, lực lượng và phối hợp thực thi nhiệm vụ biên phòng; hợp tác quốc tế về biên phòng; lực lượng Bộ đội Biên phòng; bảo đảm và chế độ, chính sách về biên phòng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân thực thi nhiệm vụ biên phòng.
+ Dự án Luật Thỏa thuận quốc tế được trình Quốc hội gồm 7 chương, 53 điều đã đưa ra khái niệm thỏa thuận quốc tế bao gồm các cam kết mang tính chính trị về hợp tác quốc tế, không mang tính ràng buộc pháp lý, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý quốc tế đối với Nhà nước và Chính phủ Việt Nam nhằm xác định rõ hơn nội dung, tính chất của thỏa thuận quốc tế theo hướng phân biệt với Điều ước quốc tế, đồng thời phân biệt với hợp đồng/thỏa thuận về giao dịch về dân sự, kinh tế, tài chính, đầu tư, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý công tác ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế, khắc phục sự không rõ ràng về nội dung thỏa thuận quốc tế và yêu cầu tuân thủ quy định về pháp luật chuyên ngành đối với nội dung hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cụ thể. M rộng phạm vi chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế phù hợp với chủ trương, nhu cầu và thực tiễn hợp tác quốc tế hiện nay; xác định rõ và đề cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh trong quản lý nhà nước đối với công tác ký kết và tổ chức thực hiện thỏa thuận quốc tế và quy định theo hướng đơn giản hóa trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế.
Trong quá trình thảo luận, Quốc hội đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ phạm vi điều chỉnh, nội hàm, nội dung cốt lõi của thỏa thuận quốc tế để xây dựng khung pháp luật phù hợp với việc ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế; soát, quy định cụ thể về chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế, trong đó cân nhắc việc mở rộng chủ thể ký kết đến Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã, đồng thời bổ sung chủ thể ký kết là các đơn vị sự nghiệp công lập; tiếp tục rà soát, hoàn thiện thêm các quy định về trình tự, thủ tục để đáp ứng tốt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính trong việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế trong thời gian tới.
+ Dự án Luật Cư trú (sửa đổi) được trình Quốc hội nhằm tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do cư trú của công dân, tạo hành lang pháp lý bảo đảm tốt hơn việc thực hiện quyền tự do cư trú của công dân và chủ trương đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư; đồng thời, nhằm ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong quản lý cư trú, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công dân trong việc thực hiện quyền tự do cư trú.
Dự thảo Luật gồm 07 chương, 43 điều (tăng 01 chương và tăng 01 điều so với Luật Cư trú hiện hành, trong đó bổ sung 12 điều, bỏ 08 điều, chỉnh lý 24 điều), trong đó có 02 chính sách mới: bãi bỏ hình thức quản lý dân cư bằng Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú và thay thế bằng hình thức quản lý theo số định danh cá nhân cập nhật thông tin trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú; đơn giản hoá các trình tự, thủ tục đăng ký cư trú để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân. Trong quá trình thảo luận, còn một số ý kiến khác nhau về tính khả thi của việc cấp số định danh cho toàn bộ dân cư, quy định về điều kiện đăng ký thường trú vào thành phố trực thuộc trung ương và quy định về việc bổ sung một số trường hợp xóa đăng ký thường trú.
+ Dự án Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) được trình Quốc hội nhằm giải quyết các vướng mắc, bất cập từ thực tiễn thi hành; đáp ứng các yêu cầu thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và bảo đảm sự đồng bộ của các luật mới ban hành trong thời gian gần đây. Đồng thời, điều chỉnh những vấn đề mới từ thực tế hoạt động người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong bối cảnh tác động của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 và quản lý vấn đề di cư, dịch chuyển lao động quốc tế, phát triển việc làm ngoài nước và bảo hộ quyền làm việc của công dân.
Dự thảo Luật gồm 08 chương, 79 điều (giảm 1 điều so với hiện hành; bãi bỏ 8 điều, bổ sung mới 9 điều và sửa đổi, bổ sung khoảng 70 điều của Luật hiện hành) sửa đổi tập trung về các nội dung sau: phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; chính sách của Nhà nước về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động; Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước; quyền và nghĩa vụ của người lao động; các hành vi bị nghiêm cấm; quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp dịch vụ; về bảo lãnh cho người lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài; về chính sách đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp; về trách nhiệm quản lý nhà nước về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
+ Dự án Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) được trình Quốc hội nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến hoạt động bảo vệ môi trường đã được thể hiện trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và XII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, đặc biệt là Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật Việt Nam và tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, bảo đảm nguyên tắc mọi người dân được sống trong môi trường trong lành của Hiến pháp 2013.
Dự thảo Luật gồm 16 chương, 186 điều quy định các nội dung về: bảo vệ các thành phần môi trường; chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia, quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược; đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường; bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đô thị, nông thôn, khu vực khác và yêu cầu về bảo vệ môi trường khác trong một số lĩnh vực; quản lý chất thải và kiểm soát các chất ô nhiễm khác; ứng phó với biến đổi khí hậu; quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường; quan trắc môi trường, thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường và báo cáo môi trường; phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và bồi thường thiệt hại môi trường; công cụ kinh tế và nguồn lực bảo vệ môi trường; hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường; quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về môi trường; trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
+ Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính được trình Quốc hội nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác phòng ngừa, đấu tranh xử lý vi phạm hành chính, tiếp tục thể chế chủ trương, chính sách có liên quan của Đảng và bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Trong đó, tập trung sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau: sửa đổi, bổ sung một số quy định về xử phạt vi phạm hành chính theo hướng bổ sung, nâng mức phạt tiền tối đa của một số lĩnh vực; sửa đổi tên, bổ sung, bãi bỏ một số chức danh có thẩm quyền xử phạt; nâng thẩm quyền xử phạt của một số chức danh; sửa đổi, bổ sung một số quy định về thủ tục xử phạt và việc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật để phát hiện hành vi vi phạm hành chính; bổ sung biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; sửa đổi, bổ sung quy định về đối tượng bị áp dụng và thủ tục áp dụng các biện pháp pháp xử lý hành chính; sửa đổi, bổ sung một số quy định về áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo đảm xử lý vi phạm hành chính và một số quy định chung của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo, tổ chức việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý các dự thảo luật, trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp sau.
* Về Hoạt động giám sát
- Sau khi xem xét báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2019 và tình hình triển khai thực hiện những tháng đầu năm 2020, Quốc hội ghi nhận, đánh giá cao sự chỉ đạo, điều hành chủ động, quyết liệt, kịp thời, hiệu quả, linh hoạt, sáng tạo của Chính phủ, sự đồng lòng, chung sức, thống nhất, đồng thuận của cả hệ thống chính trị, tạo nên sức mạnh to lớn phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả nhưng vẫn duy trì được tăng trưởng và các cân đối lớn của nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Đồng thời, yêu cầu Chính phủ, các cấp, các ngành phát huy những kết quả đạt được trong thời gian qua, bám sát tình hình thực tế để chủ động chỉ đạo, điều hành thực hiện đồng bộ, các nhiệm vụ, giải pháp mà Quốc hội đã đề ra trong Nghị quyết số 85/2019/QH14 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 để sớm phục hồi kinh tế, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, việc làm, đời sống đối với người lao động, đối tượng chính sách, người có công, người nghèo, người yếu thế và phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020.
- Quốc hội đã tiến hành giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em”. Quốc hội đánh giá cao những kết quả mà Chính phủ, các cơ quan, tổ chức ở trung ương và các địa phương đã đạt được trong công tác phòng, chống xâm hại trẻ em; đồng thời phân tích, đánh giá làm rõ những mặt hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý nhà nước, trong hoạt động thực thi pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em.
Qua giám sát cho thấy, hệ thống chính sách, pháp luật phòng, chống xâm hại trẻ em được ban hành tương đối đầy đủ, đồng bộ, kịp thời. Công tác xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh nhằm phòng, chống xâm hại trẻ em được tăng cường. Việc áp dụng các biện pháp hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em có nguy cơ bị xâm hại và trẻ em bị xâm hại được chú trọng hơn. Các vụ việc, vụ án xâm hại trẻ em cơ bản được xử lý kịp thời, nghiêm minh, góp phần phòng ngừa vi phạm, tội phạm. Đội ngũ cán bộ làm công tác trẻ em từng bước được củng cố. Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác phòng, chống xâm hại trẻ em còn một số hạn chế, tồn tại, như: còn có quy định của Luật Trẻ em và các luật có liên quan chưa được hướng dẫn kịp thời, đầy đủ, chậm được sửa đổi, bổ sung; bạo lực đối với trẻ em xảy ra trong gia đình ít được phát hiện, xử lý; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa được tiến hành thường xuyên, chất lượng, hiệu quả chưa cao, ít phát hiện được vi phạm; việc bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng là yêu cầu bức thiết nhưng pháp luật chưa quy định đầy đủ, kịp thời nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ xâm hại trẻ em trên môi trường mạng. Sau xem xét, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em và đề ra những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm yêu cầu Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương tập trung thực hiện trong thời gian tới.
- Quốc hội xem xét Báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân gửi đến kỳ họp thứ 9, Báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 8
+ Đối với Báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 8: thông qua 1.396 cuộc tiếp xúc trước và sau kỳ họp thứ 8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp nhận và tổng hợp được 2.102 kiến nghị của cử tri.
Mặc dù trong thời gian qua, Chính phủ phải tập trung thời gian, nhân lực, vật lực cùng với đồng bào, cử tri cả nước thực hiện công tác phòng, chống dịch Covid-19, đồng thời tiến hành triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật tự xã hội nhưng qua giám sát có thể khẳng định rằng, Chính phủ, các Bộ, ngành vẫn luôn rất tích cực, khẩn trương, trách nhiệm trong xem xét, giải quyết và trả lời các kiến nghị của cử tri. Nhờ đó, nhiều nguyện vọng chính đáng của cử tri đã được tiếp thu, nghiên cứu xử lý và trả lời thấu đáo. Tuy nhiên, chất lượng tổng hợp, xử lý kiến nghị cử tri của các Đoàn đại biểu Quốc hội mặc dù đã được nâng lên rõ rệt nhưng vẫn còn một số bất cập như: có trường hợp tổng hợp kiến nghị đề nghị sửa đổi, bổ sung những văn bản quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực thi hành; kiến nghị không rõ nội dung,... Đối với Chính phủ, Bộ, ngành, vẫn còn một số ít văn bản trả lời chưa đủ thông tin, chưa đúng nội dung cử tri kiến nghị, chỉ trích dẫn các quy định đã có của pháp luật, hoặc dựa trên báo cáo của cấp dưới mà chưa kiểm tra hoặc tìm giải pháp để tháo gỡ do đó cử tri tiếp tục kiến nghị; công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành trong việc xem xét, giải quyết các kiến nghị có nội dung liên ngành, liên lĩnh vực vẫn còn chậm...
+ Đối với Báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân gửi đến kỳ họp thứ 9: Từ sau kỳ họp thứ 8, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổng hợp được 3.385 ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân cả nước. Cử tri và Nhân dân tin tưởng, đánh giá cao sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp, các địa phương trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 vừa qua.
Tại kỳ họp này, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phản ánh, kiến nghị 7 nhóm vấn đề cử tri và Nhân dân quan tâm và có 5 kiến nghị gửi tới Quốc hội. Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề nghị Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, thực hiện và thông báo cho Đoàn Chủ tịch, cử tri và Nhân dân cả nước biết để giám sát theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
- Sau khi nghiên cứu, thảo luận kỹ lưỡng, cân nhắc nhiều mặt để bảo đảm chất lượng, tính khả thi của chương trình giám sát, Quốc hội đã nhất trí không tổ chức giám sát chuyên đề trong năm 2021 và thông qua Nghị quyết về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2021 với các nội dung: xem xét các báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ của các cơ quan (tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV); kết quả công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 (tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV); tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn (tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV); đồng thời, xem xét các báo cáo về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước và một số báo cáo khác theo quy định. Trên cơ sở chương trình giám sát năm 2021 của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội chủ động xây dựng, triển khai thực hiện chương trình giám sát của mình.
* Về xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng
- Sau khi xem xét các Báo cáo của Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước và Báo cáo thẩm tra, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phân bổ vốn viện trợ không hoàn lại, điều chỉnh dự toán chi ngân sách nhà nước và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2018.
Quốc hội đã quyết định phân bổ chi tiết vốn viện trợ không hoàn lại 5.370.580 triệu đồng của ngân sách trung ương năm 2018 cho 33 bộ, cơ quan Trung ương và điều chỉnh giảm dự toán chi thường xuyên, tăng dự toán chi đầu tư phát triển năm 2018 của Bộ Tài chính 1.991.061 triệu đồng, đồng thời phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2018 như sau:
+ Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 1.880.029.177 triệu đồng, bao gồm số thu chuyển nguồn từ năm 2017 chuyển sang năm 2018, thu kết dư ngân sách địa phương năm 2017, thu từ quỹ dự trữ tài chính theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
+ Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 1.869.791.887 triệu đồng, bao gồm cả số chi chuyển nguồn từ năm 2018 sang năm 2019.
+ Bội chi ngân sách nhà nước là 153.110.403 triệu đồng, bằng2,8% tổng sản phẩm trong nước (GDP), không bao gồm kết dư ngân sách địa phương.
+ Tổng mức vay của ngân sách nhà nước để bù đắp bội chi và trả nợ gốc là 284.806.197triệu đồng.
- Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030. Chương trình đã tích hợp hơn 100 chính sách dân tộc hiện nay. Phạm vi, đối tượng Chương trình tập trung vào các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số; người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức kinh tế, xã hội hoạt động ở địa bàn vùng đặc biệt khó khăn, nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền, trên cơ sở phù hợp với phong tục, tập quán của từng dân tộc, từng vùng; nhằm hướng đến mục tiêu giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; quy hoạch bố trí lại dân cư ở các vùng thường xuyên bị ảnh hưởng do tác động của thiên tai; bảo đảm sinh kế cho người dân tộc thiểu số, giảm nghèo bền vững; đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng;… trong thời gian 10 năm (2021 - 2030) dựa trên nguồn vốn chủ yếu từ ngân sách nhà nước (trong đó, giai đoạn 2021-2025: tối thiểu 137.664,95 tỷ đồng; giai đoạn 2026 - 2030: dự kiến 134.270,70 tỷ đồng) cùng với sự phát huy trí lực, tinh thần vươn lên của đồng bào.
- Quốc hội đã xem xét, thông qua Nghị quyết về việc chuyển đổi phương thức đầu tư một số dự án thành phần tại Nghị quyết số 52/2017/QH14 ngày 22/11/2017 của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020. Theo đó, chuyển đổi từ phương thức đối tác công tư sử dụng một phần vốn ngân sách nhà nước sang đầu tư công sử dụng toàn bộ vốn ngân sách nhà nước đối với 03 dự án thành phần Mai Sơn - Quốc lộ 45, Vĩnh Hảo - Phan Thiết, Phan Thiết - Dầu Giây và bổ sung vốn đầu tư không quá 23.461 (hai mươi ba nghìn, bốn trăm sáu mươi mốt) tỷ đồng bằng nguồn ngân sách nhà nước. Chính phủ rà soát, xác định và chịu trách nhiệm về tính chính xác, hợp lý của tổng mức đầu tư điều chỉnh của từng dự án thành phần chuyển đổi và tổng mức đầu tư Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020; tổ chức triển khai thực hiện các dự án thành phần chuyển đổi sử dụng toàn bộ vốn đầu tư công, chậm nhất đến cuối năm 2022 hoàn thành, đưa vào sử dụng; xây dựng phương án phù hợp để thu hồi vốn hoàn trả vào ngân sách trung ương. Các nội dung khác không quy định tại Nghị quyết này được thực hiện theo Nghị quyết số 52/2017/QH14.
- Để bảo đảm sự chủ động và chuẩn bị tốt nhất cho công tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, Quốc hội đã thành lập Hội đồng bầu cử Quốc gia (sớm hơn một kỳ so với các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân trước đây). Theo đó, Quốc hội đã bầu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân giữ chức Chủ tịch Hội đồng bầu cử Quốc gia và xem xét, phê chuẩn 04 Phó Chủ tịch và 16 Ủy viên của Hội đồng bầu cử Quốc gia theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng bầu cử Quốc gia.
Quốc hội đã tiến hành miễn nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ đối với ông Vương Đình Huệ (do được Bộ Chính trị điều động và giữ chức vụ Bí thư Thành ủy Hà Nội); miễn nhiệm chức danh Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với bà Nguyễn Thanh Hải, Trưởng Ban Dân nguyện (do được Bộ Chính trị điều động, phân công tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên); bầu ông Dương Thanh Bình, Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau giữ chức Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Công tác nhân sự tại kỳ họp được tiến hành chặt chẽ, đúng trình tự, thủ tục theo quy định, đạt sự đồng thuận cao. Nhân sự cấp cao được Quốc hội bầu, phê chuẩn đều đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ để thực hiện tốt các nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin tưởng giao phó, xứng đáng với sự tín nhiệm của Đảng, Nhà nước và sự tin tưởng của Nhân dân, cử tri cả nước.
- Quốc hội đã thông qua Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, trong đó đã quyết định kéo dài thời kỳ ổn định ngân sách nhà nước giai đoạn 2017-2020 sang năm 2021; lùi thời gian ban hành định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên sang năm 2021; bổ sung vốn điều lệ cho Agribank. Đồng thời, giao Chính phủ: Chủ động trong điều hành ngân sách nhà nước năm 2020 phù hợp với tình hình thực tế. Tập trung thực hiện các giải pháp chống thất thu, tiết giảm chi ngân sách nhà nước, cắt giảm tối thiểu 70% kinh phí hội nghị, đi công tác trong và ngoài nước còn lại của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương và tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên khác còn lại của năm 2020. Trong trường hợp cần thiết, chủ động điều chỉnh kế hoạch đầu tư công vốn ngân sách trung ương năm 2020 giữa các bộ, ngành, địa phương. Chưa thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và lương hưu từ ngày 01/7/2020 và căn cứ tình hình thực tế, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thời điểm điều chỉnh. Tiếp tục triển khai thực hiện và kịp thời báo cáo Quốc hội về những vấn đề phát sinh nhằm thực hiện tốt nhất các Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Trong việc biên soạn, phát hành sách giáo khoa cần tổng kết, rút kinh nghiệm đối với lớp 1 và tiếp tục chỉ đạo thực hiện đối với từ lớp 2 đến lớp 12; bảo đảm giá sách giáo khoa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, thu nhập của người dân và có chính sách hỗ trợ đối với học sinh vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Bảo đảm các điều kiện để triển khai chương trình, sách giáo khoa mới. Tổ chức tốt kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2020...
* Về Hoạt động của Đoàn ĐBQH tỉnh Kon Tum tại kỳ họp: Đoàn ĐBQH tỉnh Kon Tum tham dự kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV gồm 06/06 đại biểu, do đồng chí A Pớt, Phó Bí thư Tỉnh ủy - Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh làm Trưởng đoàn. Tại kỳ họp, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã hoạt động tích cực và tham gia đầy đủ các phiên họp của Quốc hội. Với tinh thần trách nhiệm cao với nhân dân cả nước nói chung, với cử tri tỉnh Kon Tum nói riêng, các đại biểu Quốc hội trong Đoàn đã tập trung trí tuệ, nghiên cứu, tham gia ý kiến có chất lượng cao tại các buổi thảo luận ở Tổ và ở Hội trường (họp trực tiếp và trực tuyến).
Tại các phiên thảo luận ở hội trường, Đoàn ĐBQH tỉnh đã có 10 lượt phát biểu với 49 ý kiến tham gia đối với các nội dung: Về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước; Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em; Luật Biên phòng; Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi); Bộ luật Lao động (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức; Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án; Luật Thanh niên (sửa đổi);…
Tại các phiên thảo luận tại Tổ, Đoàn ĐBQH tỉnh đã có 6 lượt phát biểu với 21 ý kiến tham gia đối với các nội dung: Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; Việc điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020; Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính; Luật Biên phòng Việt Nam;...
Ngoài các phiên họp chính thức, trong thời gian diễn ra kỳ họp các đại biểu Quốc hội trong Đoàn đã tham gia các hoạt động của Hội đồng dân tộc và Ủy ban của Quốc hội mà mình là thành viên./.