Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và nhạy bén của Đảng, nhân dân ta đã chớp thời cơ tổng khởi nghĩa thắng lợi trong cả nước tháng 8/1945, đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, phát xít giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ nhân dân, và để chỉ rõ sự khác nhau căn bản giữa nhà nước kiểu mới và nhà nước trước đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “ Nhà nước phong kiến là công cụ của địa chủ để thống trị nông dân, nhà nước tư sản là công cụ của giai cấp tư sản để thống trị giai cấp công nhân. Song từ cách mạng Nga thành công, một xã hội mới ra đời nhà nước đã trở thành công cụ thống trị của nhân dân lao động. Nhà nước ta cũng là nhà nước của đại đa số nhân dân thống trị thiểu số phản động, để giữ gìn lợi ích của nhân dân” ( Hồ Chí Minh toàn tập tập 7 Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1996). Điểm nổi bật thể hiện bản chất nhà nước dân chủ mới đó là “trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chúng ta tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân” và nền tảng của nhà nước ấy là “lấy công nông liên minh trí làm nền tảng đoàn kết các giai cấp dân chủ và các dân tộc trong nước…” (Hồ Chí Minh toàn tập tập 7). Tư tưởng ấy trở thành nguyên tắc hiến định, xuyên suốt từ hiến pháp đầu tiên, Hiến pháp năm 1946 biểu đạt ở điều thứ nhất “Nhà nước Việt Nam là một nhà nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”… đến Hiến pháp năm 1959 tại điều 4, Hiến pháp năm 1980 tại điều 6, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 tại điều 2 đều khẳng định: Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân trực tiếp lập ra nhà nước, thông qua bỏ phiếu bầu ra các cơ quan nhà nước, mà như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói là : “Bầu ra các hội đồng nhân dân, ủy ban hành chính địa phương và quốc hội cùng chính phủ trung ương…”, và nguyên tắc bầu cử là phổ thông, bình đẳng trực tiếp và kín, và “mọi công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn hóa, không phân biệt nòi giống đều có quyền tham gia” ( Hồ Chí Minh). Một điều đáng chú ý là sau cách mạng dân chủ tư sản pháp 1789 không phải tất cả mọi công dân cũng đều có quyền đi bầu, hiến pháp 1791 quy định chỉ có những công dân tích cực mới có quyền bỏ phiếu, hiến pháp 1793 đã bỏ quy định này nhưng thay thế bằng quy định quyền phổ thông đầu phiếu cho nam công dân trên 21 tuổi, phải đến nền đệ tứ cộng hòa phụ nữ pháp mới được có quyền bầu cử. Nhà nước Việt Nam mới với bản chất như thế, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiến hành các cuộc kháng chiến vĩ đại, chống giặc ngoại xâm thống nhất Tổ Quốc, làm nghĩa vụ quốc tế, bảo vệ xây dựng lại đất nước.
Sau kháng chiến thắng lợi Tổ Quốc thống nhất, tháng 7/1976 Quốc hội quyết định đổi tên nước thành Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc đổi tên nước không phải là thay đổi bản chất của nhà nước, hay thay đổi chính thể, mà là để khẳng định một cách mạnh mẽ con đường mà dân tộc Việt Nam đã lựa chọn dưới sự lãnh đạo của Đảng là con đương XHCN. Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam tiếp tục hoàn thiện bộ máy nhà nước, đó là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch vững mạnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất, năng lực thực sự là “công bộc” của dân, đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm, đảm bảo quyền con người, quyền công dân.
Có thể thấy rằng quá trình ra đời và phát triển của nhà nước Việt Nam kiểu mới, từ sau cách mạng mùa thu tháng 8 đến nay, thứ nhất: Mặc dù ở mỗi giai đoạn cách mạng, nhà nước ta thực hiện những nhiệm vụ khác nhau, và có những bước phát triển khác nhau, nhưng bản chất nhà nước vẫn chỉ có một đó là nhà nước “Của dân, do dân và vì dân”. Thứ hai: Nhà nước Việt Nam kiểu mới là nhà nước có chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, là nhà nước của các dân tộc Việt Nam, với nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức. Thứ ba: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân lao động, cơ chế thực hiện quyền lực đó là thông qua cơ quan dân cử là Quốc hội và Hội đồng nhân dân, với chế độ bầu cử các cơ quan này là phổ thông bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước gồm ba cơ quan: Cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp, với cơ chế và nguyên tắc là: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thứ tư: khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, sự khẳng định đó không chỉ trên thực tế mà còn hiến định trong đạo luật cơ bản của nhà nước. Mặc dù tại Hiến pháp năm 1946 chưa đề cập, do tính chất gay go, phức tạp của bối cảnh lịch sử, nhưng trên thực tế Đảng vẫn lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo toàn dân tiến hành kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đến Hiến pháp năm 1959 sự lãnh đạo của đảng được ghi nhận trong lời nói đầu, và Hiến pháp năm 1980, năm 1992 , năm 2013 khẳng định tại điều 4. Việc ghi nhận sự lãnh đạo của đảng trong hiến pháp, thể hiện tính nguyên tắc, sự thừa nhận và khẳng định vai trò của Đảng trên thực tế và trên pháp lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rằng “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”, Đảng cầm quyền tức là chính quyền thuộc về nhân dân, mà chính quyền đó do Đảng lãnh đạo, nhằm thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là tổ chức xây dựng đất nước giàu mạnh. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân./.